Chủ nhật, 19/05/2024 | 14:50 GMT+7

Đường đến “Làng năng lượng mặt trời”

28/11/2010

Hai năm gần đây, có dịp ngang qua khối phố Bình Kỳ 2, phường Hòa Quý, quận Ngũ Hành Sơn, chúng ta dễ dàng nhìn thấy những chiếc bếp sử dụng năng lượng mặt trời (NLMT) hình pa-ra-bôn, hình hộp được bà con đặt ngay ngắn trước sân nhà. Đây là bước khởi đầu để xây dựng mô hình “Làng NLMT” tại Đà Nẵng trong tương lai.

Hai năm gần đây, có dịp ngang qua khối phố Bình Kỳ 2, phường Hòa Quý, quận Ngũ Hành Sơn, chúng ta dễ dàng nhìn thấy những chiếc bếp sử dụng năng lượng mặt trời (NLMT) hình pa-ra-bôn, hình hộp được bà con đặt ngay ngắn trước sân nhà. Đây là bước khởi đầu để xây dựng mô hình “Làng NLMT” tại Đà Nẵng trong tương lai.

 

Đổi thay ở xóm nghèo


Trải qua 2 mùa nắng, người dân nơi đây đã thôi đun nấu bằng củi, lá dương liễu, rơm rạ khô (cách đun nấu thường gây các bệnh về đường hô hấp, mắt, phổi do khói bụi), vừa tiết kiệm thời gian, vừa bảo vệ được môi trường sống. Như gia đình chị Trần Thị Thương ở tổ 10, từ ngày sử dụng bếp NLMT, công việc nấu nướng của chị đỡ vất vả, lợi nhuận thu lại từ việc bán bún, mỳ Quảng cũng khá hơn. Chị tâm sự: “Vào mùa nắng, tôi hầm xương, thịt, nấu nước sôi sử dụng cho việc tắm gội, rửa chén bát, nấu cơm, canh…thoải mái mà không sợ tốn tiền gas. Số củi thu gom được trong mùa nắng, gia đình tôi dành dụm khi mùa mưa đến”.


Giống như chị Thương, hàng trăm hộ dân ở Bình Kỳ 2 nhờ sử dụng bếp NLMT đã tiết kiệm được mỗi tháng khoảng 100.000 đồng mua chất đốt. Đối với các gia đình buôn bán nhỏ, mỗi tháng có thể tiết kiệm được 200.000 đồng. Trung bình, tuổi thọ của các loại bếp NLMT trên 15 năm và giá thành 850.000 đồng (đối với bếp hình hộp) và 1.500.000 đồng (đối với bếp hình pa-ra-bôn) thì việc sử dụng loại bếp này sẽ giúp người dân tiết kiệm được rất nhiều kinh phí.

Đây là kết quả sau 2 năm thực hiện đề tài “Nghiên cứu triển khai ứng dụng thiết bị NLMT tại các hộ gia đình vùng nông thôn, miền núi thành phố Đà Nẵng”. Toàn bộ kinh phí dự án do Tổ chức Phục vụ NLMT Solar Serve và Sở Khoa học Công nghệ TP. Đà Nẵng tài trợ, được triển khai từ cuối năm 2007. Từ đó đến nay, đã có khoảng 300 hộ dân nghèo được hưởng lợi trực tiếp từ dự án.


images577873_bep_NLMT_3.jpg


Việc phổ biến bếp NLMT phần nào giúp người dân Hòa Quý đỡ vất vả trong việc tìm kiếm chất đốt và bảo vệ môi trường sống


Theo PGS.TS Hoàng Dương Hùng, chủ nhiệm đề tài, Đà Nẵng là địa bàn có nguồn NLMT rất lớn, cường độ bức xạ mặt trời có thể đạt đến 960 W/m2 với số giờ nắng cao, 220 giờ/năm. Trong quá trình khảo sát thực tế, Ban chủ nhiệm đề tài đã quyết định chọn khối phố Bình Kỳ 2, phường Hòa Quý, quận Ngũ Hành Sơn làm địa điểm thực hiện đề tài và dự kiến xây dựng Làng NLMT trong tương lai. Đây là một trong những địa bàn khó khăn nhất của quận Ngũ Hành Sơn, có khoảng 500 hộ gia đình sinh sống, 50% trong số đó thuộc diện nghèo, phần lớn các hộ dân có sân phơi rộng, đủ điều kiện sử dụng thiết bị NLMT.


Những bất cập cần được khắc phục


Dù có nhiều ưu điểm, nhưng tại Đà Nẵng, các sản phẩm sử dụng NLMT vẫn chưa được ứng dụng rộng rãi mà chỉ mới tập trung tại phường Hòa Quý, quận Ngũ Hành Sơn. Ông Huỳnh Phước, Giám đốc Sở Khoa học Công nghệ Đà Nẵng cho rằng, một mặt do kinh phí của thành phố chỉ đầu tư cho việc nghiên cứu, sáng chế, ứng dụng trong giới hạn thực hiện đề tài. Sau khi đề tài đã nghiệm thu, Sở không có nguồn kinh phí để hỗ trợ cho việc ứng dụng rộng rãi. Bên cạnh đó, một thực tế hiện nay là việc nghiên cứu, ứng dụng chỉ được thực hiện bởi  một vài tổ chức, viện nghiên cứu và các trường đại học, còn phía doanh nghiệp, cá nhân vẫn chưa “mặn mà” với việc sản xuất cũng như sử dụng các thiết bị NLMT.


Ngoài ra, qua thực tế sử dụng, đến nay những hộ dân tại phường Hòa Quý chỉ duy trì việc đun nấu bằng mô hình bếp pa-ra-bôn, và chủ yếu dùng cho việc nấu nước sôi.


Chị Phan Thị Bảy, một hộ nghèo tại tổ 12, khối phố Bá Tùng, phường Hòa Quý phân trần, từ tháng 3-2010, gia đình chị chọn loại bếp hình hộp vì thấy bếp này có dáng gọn, sẽ thuận tiện trong việc bảo quản. Tuy nhiên, dù sử dụng đúng như hướng dẫn, bếp vẫn chưa một lần phát huy tác dụng. Trời nắng chang chang, trong khi nước được nấu tại bếp pa-ra-bôn chỉ khoảng 20 phút là sôi thì nồi nước đặt trong chiếc bếp hình hộp cả tiếng sau mới chỉ bốc khói mà không thấy sôi.


Do bếp hình hộp không phát huy tác dụng, nhiều người dân tại Hòa Quý thỉnh thoảng vẫn sang nấu nước nhờ hàng xóm có bếp pa-ra-bôn. Ông Huỳnh Kim, Phó Chủ tịch UBND phường Hòa Quý bộc bạch: “Mô hình sử dụng bếp NLMT hiện nay vẫn chưa thật sự hiệu quả. Người dân muốn được đổi bếp hình hộp để lấy bếp pa-ra-bôn. Tuy nhiên, do số lượng bếp được cấp về có hạn, nên mới có chuyện gần 100 chiếc bếp hình hộp vô tình bị bỏ phí do không sử dụng được”. 


Lý giải về điều này, PGS.TS Hoàng Dương Hùng cho biết, đối với bếp hình hộp, trong những ngày nắng gắt, nhiệt độ tối đa là 1200C nên chỉ phù hợp cho việc nấu cơm, canh, nước, còn muốn chiên xào, nướng thức ăn thì khó thực hiện. Khác với bếp hình hộp, bếp pa-ra-bôn có độ tập trung bức xạ mặt trời cao nên nhiệt độ thu lại tối đa lên đến 405oC. Do đó, việc nấu nướng diễn ra dễ dàng hơn. Do vậy, việc sử dụng song song hai loại bếp sẽ giúp người dân khắc phục được một số nhược điểm tồn tại ở mỗi mô hình.


Cạnh đó, việc triển khai ứng dụng trên thực tế còn nhiều hạn chế, bởi các thiết bị sử dụng NLMT hoàn toàn phụ thuộc vào thời tiết, vì vậy rất khó thực hiện ở quy mô công nghiệp hay áp dụng rộng rãi vào thực tế. Ông Huỳnh Phước trăn trở: “Hãy tưởng tượng, giữa lúc trời nắng gắt, bà con cứ phải chạy vào chạy ra trên nền sân bê-tông để nấu nướng thức ăn, rất dễ ảnh hưởng trực tiếp sức khỏe và các bệnh về mắt. Vì vậy, ngoài vấn đề tìm kiếm nguồn kinh phí trong việc ứng dụng, Ban chủ nhiệm đề tài cần phát triển mô hình bếp NLMT theo hướng thương mại hóa để bảo đảm hơn về mặt kỹ thuật, giá cả, kiểu dáng công nghiệp cũng như công năng sử dụng, như vậy mới hy vọng dự án “Làng NLMT” sẽ sớm được thực hiện”. 


Có thể thấy rằng, sau 2 năm ứng dụng, đề tài “Nghiên cứu triển khai ứng dụng thiết bị NLMT tại các hộ gia đình vùng nông thôn, miền núi thành phố Đà Nẵng” bước đầu đã thu được những kết quả nhất định, giúp gia đình nghèo ở nông thôn đỡ vất vả trong việc tìm kiếm chất đốt, hạn chế tình trạng chặt phá cây rừng làm củi. Tuy nhiên, để mô hình này thực sự đi vào cuộc sống, theo ý kiến của nhiều người, nhà sản xuất cần quan tâm hơn đến nhu cầu thực tế của người dân, cũng như từng bước khắc phục những nhược điểm, tồn tại như bài viết đã nêu.


Theo bao danang.vn