Thứ bảy, 23/11/2024 | 11:51 GMT+7

Hiện trạng phát triển của thủy điện nhỏ thế giới

01/11/2007

Tính đến cuối năm 2004, trong tổng số 741 GW thủy điện đã được xây dựng, thủy điện nhỏ bao gồm cả thủy điện mini và micro đóng góp 61 GW. Châu Á là khu vực đang dẫn đầu thế giới với tổng công suất lắp máy đạt gần 42 GW, tiếp theo đó là Châu Âu với tổng công suất lắp đạt 13 GW. Tổng công suất lắp thủy điện nhỏ của các nước đang phát triển đạt 39 GW.

Hiện nay, Trung Quốc là quốc gia chiếm hơn một nửa công suất lắp máy thủy điện nhỏ của thế giới với 34 GW. Các nước khác đang chú trọng phát triển mạnh thủy điện nhỏ là Úc, Canada, Ấn Độ, Nepal và New Zealand.

Trong số 13 GW công suất lắp máy thủy điện nhỏ của Châu Âu năm 2004 các nước thuộc liên minh Châu Âu (EU-25) chiếm 84% với 11 GW công suất lắp. Trong các nước EU-25, Ý là nước có công suất lắp thủy điện nhỏ cao nhất, chiếm 21% tổng công suất lắp của EU-25, tiếp theo là Pháp 17% và Tây Ba Nha 16%.

Tổng tiềm năng thủy điện nhỏ khả thi về kinh tế ở các nước EU-15 (EU-15 bao gồm: Bỉ, Đan Mạch, Đức, Hy Lạp, Tây Ba Nha, Pháp, Ailen, Ý, Luxembua, Hà Lan, Áo, Bồ Đào Nha, Phần Lan, Thụy Điển, Anh) ước tính vào khoảng 110.000 GWh/năm, ở các nước thành viên mới của EU (EU-10) là 6.775 GWh/năm và ở những nước chuẩn bị gia nhập EU (CC) là 24.216 GWh/năm. Tính đến nay, những nước EU-15 đã khai thác hơn 82% tiềm năng thủy điện nhỏ khả thi về kinh tế, tỷ lệ này ở nhóm EU-10 vào khoảng 36,2% và 5,8% ở những nước CC. Tình hình khai thác thủy điện nhỏ ở những nước thành viên mới của Châu Âu như sau: lớn nhất là những nước Cộng hòa Séc, Rumani, Slovenia và Bungari (từ 40% đến 60% tiềm năng khả thi về kinh tế), ở Estonia, Latvia và Lithuania (khoảng 15 đến 20%), Thổ Nhĩ Kỳ 3%. Tiềm năng khả thi về kinh tế ước tính vào khoảng 26 TWh/năm ở những nước thành viên mới và những nước ứng cử viên. Phần lớn tiềm năng này nằm ở Thổ Nhĩ Kỳ (chiếm khoảng 80% tương ứng với 19.300 GWh/năm). Ba Lan và Rumani đứng hàng thứ 2, nhưng tiềm năng chỉ bằng 1/6 đến 1/10 của Thổ Nhĩ Kỳ. Nhóm thứ 3 là các nước Cộng hòa Séc, Slovenia, Bungari và Slovakia. Tiềm năng khả thi về kỹ thuật của những nước này từ 755 đến 2800 GWh/năm và tiềm năng khả thi về kinh tế của những nước này từ 700 đến 1.480 GWh/năm. Tiếp sau đó là Latvia và Lithuania, cuối cùng là Estonia và Hungary  (hai nước này chỉ có một vài trạm thủy điện nhỏ tồn tại).

Tính đến nay, có khoảng 14.000 nhà máy thủy điện nhỏ đang vận hành  ở các nước thuộc EU-15 với công suất trung bình nhà máy là 0,7 MW. Con số này ở các nước thuộc EU-10 và CC là 2.766 nhà máy (công suất trung bình nhà máy 0,3 MW) và 388 nhà máy (công suất trung bình nhà máy 1,6 MW).

Các nhà máy thủy điện nhỏ ở những nước thuộc EU-15 có thời gian vận hành lâu nhất với gần 70% các nhà máy đang hoạt động ở các nước thuộc EU-15 có thời gian vận hành trên 40 năm và gần một nửa trong số đó đã vận hành trên 60 năm. Ở các nước thuộc EU-10 và CC, các nhà máy đã hoạt động trên 40 năm vào khoảng 30% và trên 60 năm chiếm 10%.

Tổng công suất lắp máy của thủy điện nhỏ ở các nước EU-10 là 822 MW và ở các nước CC là 608 MW, thấp hơn nhiều so với tổng công suất lắp máy thủy điện nhỏ ở các nước EU-15.

Số lượng các cơ sở sản xuất thiết bị thủy điện nhỏ phân bố không đều ở các nước thuộc EU, phần lớn tập trung ở những nước thuộc EU-15 là khu vực đã khai thác phần lớn tiềm năng thủy điện nhỏ và có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Tổng số cơ sở sản xuất tuabin nước quy mô nhỏ ở các nước EU-15 là 70, con số này thấp hơn rất nhiều ở các nước EU-10 và CC với 18 và 3 cơ sở sản xuất.

Hiện nay, chính sách hỗ trợ phát triển thủy điện nhỏ được áp dụng phổ biến ở phần lớn các nước thuộc EU là chính sách hỗ trợ giá. Loại hình này thiết lập một giá bảo lãnh cho điện năng phát từ các nhà máy thủy điện nhỏ.

Các dự báo về công suất lắp và điện lượng thủy điện nhỏ của các nước thuộc EU được thiết lập cho thời đoạn ngắn (đến 2010) và trung bình (đến 2015). Theo các kết quả dự báo này, tổng công suất và điện lượng của các nước thuộc EU-15 dự tính sẽ tăng 11% vào năm 2010 và 30%  vào năm 2015. Tỷ lệ tăng trưởng ở các nước EU-10 là 11% vào năm 2010 và 49% vào năm 2015, và đối với những nước CC, dự tính tỷ lệ tăng trưởng 34% vào năm 2010 và 72% vào năm 2015.

Mạnh Hùng

(theo “Thủy điện nhỏ” của Ủy ban thủy điện nhỏ Châu Âu (ESHA) năm 2005)