Thứ bảy, 23/11/2024 | 04:38 GMT+7
Nhà máy ắc quy Vĩnh Phú (nay là Công ty cổ phần Pin - ắc quy Vĩnh Phú) chính thức hoạt động từ 30/10/1978 với công suất thiết kế là 50.000 kwh ắc quy mỗi năm.
Mỗi năm doanh nghiệp tiêu thụ bình quân khoảng 1,5tr kWh; trên 15 tấn gas. Trong quá trình sản xuất, công ty sử dụng nhiều hóa chất, nguyên liệu độc hại như chì, kẽm, axit, thời gian hoạt động lâu năm nên có nhiều tồn tại về chất thải và môi trường làm việc. Khi được Hợp phần sản xuất sạch hơn (SXSH) của Bộ Công Thương và tỉnh Phú Thọ chọn tham gia thí điểm từ giữa năm 2008, lãnh đạo công ty xác định đây là cơ hội để tổ chức lại sản xuất, đầu tư cải tạo hệ thống trang thiết bị và đảm bảo môi trường sản xuất bền vững.
Sau khi được tập huấn chuyên môn, trang bị các kiến thức về áp dụng SXSH, công ty đã thành lập một tổ chuyên môn gồm các cán bộ kĩ thuật các phân xưởng, nòng cốt là phòng kĩ thuật do đồng chí Triệu Đình Thạch (Phó giám đốc kĩ thuật) làm đội trưởng.
Ở hệ thống chiếu sáng, công ty dần thay thế bóng đèn công suất 40W bằng bóng đèn tuýp công suất 36W. Công ty còn tăng cường chiếu sáng bằng cách lau chùi các tấm kính hai bên nhà xưởng.
Để giảm lượng điện tiêu thụ trong quá trình sản xuất, công ty thay thế dần các quạt tự chế 3 pha tiêu thụ nhiều điện (công suất 1,2 kW) bằng các quạt mới có công suất tiêu thụ điện ít hơn nhưng hiệu quả làm mát tốt hơn. Thêm vào đó, việc nghiên cứu thay thế máy đúc bi chỉ cũ bằng máy hiện đại hơn vừa tiết kiệm điện vừa tránh được chỉ bị oxy hóa do chỉ hồi lưu nhiều cũng được quan tâm đầu tư.
Trước đây, công ty thải ra một lượng nước thải là 16.000 m3/năm từ các quá trình làm mát thiết bị và tẩy rửa sàn có chứa các hóa chất gồm có các kim loại nặng Pb, các hợp kim và axit. Công ty cũng có một hệ thống ao sinh học để chứa nước thải trước khi ra ngoài. Tuy nhiên quá trình xử để quá trính xử lý đạt hiệu quả cao cũng như tránh tình trạng nước thải ngấm xuống đất ảnh hưởng tới mạch nước ngầm, công ty tiến hành tuần hoàn một phần lượng nước từ quá trình làm mát các thiết bị cũng như tăng cường quá trình rửa sàn để tiết kiệm nước. Cụ thể, công ty đầu tư 75 triệu đồng xây dựng bể chứa nước thải; bể chứa nước trên cao bằng thép; hệ thống ống, van, bơm nào bị rò rỉ cũng được thay thế. Lợi nhuận thu được của giải pháp này là 43,2 triệu đồng (tuần hoàn được 30m3 nước/ngày = 10.800m3/năm).
Ở công đoạn máy sấy tầm cực, thiết bị sấy đã cũ, sản xuất ra nhiều tấm cực hỏng, tiêu thụ nhiều gas. Công ty nghiên cứu và thay thế bằng thiết bị mới vừa tiết kiệm năng lượng vừa giảm các tỉ lệ sản phẩm hỏng.
Giai đoạn I công ty đã thực hiện 13 giải pháp đơn giản liên quan đến hệ thống đúc bi, nghiền bột chì, trát cao, ủ cực… Giai đoạn I được cho là khá thành công với những con số ấn tượng: Lượng chì nguyên chất trước khi áp dụng cho SXSH là 7,5kg cho 1 KWh ắc quy giảm xuống còn 7,3kg, giúp giảm 5,5% lượng COD, BOD. Chì hợp kim giảm từ 7,3kg xuống còn 7kg. Lượng muối giảm từ 0,5m3 xuống còn 0,43m3, giúp tiết kiệm 4.900 m3 nước sạch/năm. Lượng than giảm từ 20 tấn/năm xuống không còn phải sử dụng than. Lượng điện giảm từ 20KWh xuống còn 14,7KWh, giúp giảm 371.000 KWh điện/năm.
Trong giai đoạn hai, công ty đề ra một số mục tiêu như: hệ thống xử lý nước thải tập trung được xây dựng mới đảm bảo TCVN, chì các loại giảm từ 14,3kg/KWh ắc quy xuống còn 13,8kg; nước từ 0,43 m3/KWh xuống còn 0,4m3; điện từ 14,7KWh/1KWh ắc quy giảm xuống 13,5 KWh.
Các hạng mục đầu tư giai đoạn 2 sẽ là máy đúc sườn cực tự động, hệ thống hút và xử lý mù axit ở công đoạn hóa thành, thiết bị hút bụi, thiết bị sấy khí ga, hệ thống tuần hoàn nước, tuần hoàn axit. Tổng vốn đầu tư giai đoạn là là hơn 9 tỷ đồng (trong đó vốn do CPI hỗ trợ là 3,1 tỷ đồng). Đến tháng 12/2008, công ty đã thực hiện xong hệ thống đúc bi, nghiền bột chì, trát cao, ủ cực; tháng 7/2009, hoàn thiện máy đúc sườn; tháng 9/2009 hoàn thành hệ thống hút và xử lý mù axit. Hiện tại, công ty đã duy trì ổn định công tác SXSH trong công ty và tiếp tục đầu tư mở rộng sản xuất và cải tạo dây chuyền giai đoạn ba.
Tuy mới đầu tư và hoàn thành triển khai hợp phần từ cuối năm 2009 nhưng đến nay hiệu quả mang lại ở Công ty cổ phần Pin Ắc quy Vĩnh Phú rất rõ rệt. Rõ ràng việc giảm chi phí vật tư nguyên, nhiên liệu không chỉ làm tăng hiệu quả và khả năng cạnh tranh của sản phẩm mà còn tác động rất lớn tới chất thải vào môi trường.
Hiện công ty đang phấn đấu đảm bảo các chỉ số ô nhiễm khí thải nằm trong giới hạn cho phép của TCVN. Xây dựng hệ thống xử lý nước thải đảm bảo nước thải ra môi trường đảm bảo tiêu chuẩn. Giảm 10% tiêu thụ điện năng, 10% lượng gas, 5% lượng xỉ chỉ thải và giảm tỉ lệ sản phẩm hỏng xuống còn 3%.
Hoàng Tuyết