Sau 15 năm triển khai thi hành, đến giai đoạn hiện nay cần thiết phải nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung một số nội dung được quy định tại Luật SDNL TK&HQ và các quy định liên quan
Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả (Luật SDNL TK&HQ - Luật số 50/2010/QH12) có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2011. Luật đánh dấu mốc quan trọng trong quá trình xây dựng pháp luật về SDNL TK&HQ ở nước ta.
Luật số 50/2010/QH12 đã khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước coi SDNL TK&HQ là chính sách được ưu tiên hàng đầu, giữ vai trò quan trọng trong việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế gắn với an ninh năng lượng và bảo vệ môi trường.
Tại phiên họp Chính phủ chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 12/2024 do Thủ tướng Chính Phủ Phạm Minh Chính chủ trì, các thành viên Chính phủ đã thảo luận và cho ý kiến đối với Đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SDNL TK&HQ do Bộ Công Thương trình.
Chính phủ thống nhất về sự cần thiết xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SDNL TK&HQ để thể chế hóa các chủ trương của Đảng về việc sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả và thực hiện có hiệu quả các mục tiêu đề ra, trong đó có mục tiêu đưa phát thải ròng về “0” vào năm 2050 như cam kết của Việt Nam tại Hội nghị Thượng đỉnh về Biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc lần thứ 26 (COP 26).
SDNL TK&HQ là hết sức cần thiết khi nhu cầu sử dụng năng lượng sẽ tăng cao trong thời gian tới. Đây là một trong 5 khâu cần được quan tâm của ngành điện (nguồn điện, truyền tải điện, phân phối điện, sử dụng điện tiết kiệm, hiệu quả và giá điện).
Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11 tháng 02 năm 2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đưa ra quan điểm chỉ đạo: “SDNL TK&HQ bảo vệ môi trường phải được xem là quốc sách quan trọng và trách nhiệm của toàn xã hội; xây dựng cơ chế, chính sách đồng bộ, chế tài đủ mạnh và khả thi để khuyến khích đầu tư và sử dụng các công nghệ, trang thiết bị tiết kiệm năng lượng, thân thiện môi trường, góp phần thúc đẩy năng suất lao động và đổi mới mô hình tăng trưởng”. Nghị quyết đặt ra yêu cầu mới đổi mới cơ chế, chính sách, phát triển thị trường hiệu quả năng lượng một cách đồng đồng bộ.
Đặc biệt, giảm phát thải khí nhà kính, giảm dấu vết carbon trong chuỗi sản xuất công nghiệp là xu thế tất yếu toàn cầu trong những thập kỷ tới. Tại Hội nghị các bên tham gia Công ước Khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu lần thứ 26, Viêt Nam cam kết phấn đấu đưa phát thải ròng về 0 vào năm 2050. SDNL TK&HQ là giải pháp hàng đầu kỳ vọng sẽ đóng góp quan trọng cho mục tiêu Net Zero của Việt Nam đến năm 2050. Với cam kết này Việt Nam cần phải xem xét sửa đổi Luật SDNL TK&HQ có hiệu lực từ năm 2011 theo hướng xây dựng các chế tài mang tính bắt buộc thay vì khuyến khích thực thi các giải pháp tiết kiệm năng lượng.
Luật SDNL TK&HQ gồm có 12 Chương, 48 Điều, quy định các giải pháp SDNL TK&HQ trong các ngành, các lĩnh vực kinh tế, xã hội và quy định quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc SDNL TK&HQ.
Cùng với sự ra đời của Luật Sử SDNL TK&HQ, một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đã được khẩn trương xây dựng và ban hành, tạo thành khung pháp lý tương đối hoàn chỉnh, đồng bộ, đảm bảo cho tính thực thi các hoạt động trong lĩnh vực SDNL TK&HQ.
Tuy nhiên, sau gần 15 năm triển khai thi hành, đến giai đoạn hiện nay cần thiết phải nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung một số nội dung được quy định tại Luật SDNL TK&HQ và các quy định liên quan.
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh: “Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SDNL TK&HQ được xây dựng nhằm giải quyết được các vấn đề của thực tiễn trong nước đặt ra, phù hợp với luật pháp, thông lệ quốc tế, tăng cường hiệu quả, hiệu lực trong quản lý nhà nước, loại bỏ vướng mắc, rào cản, tạo hành lang pháp lý thuận lợi, tăng cường các cơ chế khuyến khích, thúc đẩy hoạt động sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trên phạm vi cả nước”.
Theo các chuyên gia, nhiều cơ chế, chính sách ưu đãi, khuyến khích trong lĩnh vực SDNL TK&HQ quy định tại Luật còn khoảng trống, hoạt động kiểm toán năng lượng có hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, chất lượng kiểm toán năng lượng còn thấp do chưa được kiểm soát một cách đầy đủ…
Đặc biệt, Luật chưa quy định hành lang pháp lý cho việc phát triển thị trường tiết kiệm năng lượng thông qua cơ chế thực hiện các hợp đồng hiệu quả năng lượng theo mô hình ESCO.
Việc thiếu các quy định giám sát việc thực hiện đối với các đơn vị tư vấn đã và đang gây ra những bất cập trong việc quản lý như: chất lượng tư vấn của các đơn vị không đồng đều, thiếu các quy định về chất lượng thiết bị kiểm toán năng lượng, quy định thúc đẩy thị trường tiết kiệm năng lượng; quy định về các cơ chế ưu đãi, khuyến khích trong Luật còn chưa cụ thể, dẫn đến các chính sách ưu đãi đối với hoạt động SDNL TK&HQ chưa được triển khai thực hiện.
Hội nghị lần thứ 29 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP29) đã kêu gọi tất cả các quốc gia tăng mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính của mình trong NDC mới; chuyển đổi nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng tái tạo, năng lượng sạch phải được thực hiện công bằng, có tính đến hoàn cảnh và lộ trình khác nhau của các quốc gia. Việt Nam cần huy động nguồn lực quốc tế hỗ trợ Việt Nam trong ứng phó với biến đổi khí hậu, chuyển đối năng lượng công bằng và thực hiện các cam kết quốc tế. Việc sửa đổi, bổ sung Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả sẽ giúp Việt Nam kịp thời tận dụng, thu hút và huy động được các nguồn lực quốc tế để hỗ trợ, thúc đẩy quá trình đầu tư tiết kiệm năng lượng, chuyển đổi thị trường các sản phẩm tiết kiệm năng lượng.
Bên cạnh đó, Việt Nam đã cam kết đưa phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Vì vậy, cùng với việc chuyển đổi mạnh mẽ cơ bản nguồn năng lượng hợp lý theo hướng giảm thiểu nguồn năng lượng có nguồn gốc hóa thạch, tăng mạnh nguồn năng lượng tái tạo, Việt Nam cần phải xem xét sửa đổi Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả theo hướng tăng cường các quy định, chế tài mang tính bắt buộc thay vì khuyến khích thực thi các giải pháp tiết kiệm năng lượng.
Mục tiêu chính của Đề xuất sửa đổi một số điều của Luật SDNL TK&HQ là tháo gỡ các rào cản, nâng cao tính thực tiễn, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống luật pháp trong các hoạt động sử dụng năng lượng, góp phần thực hiện các cam kết quốc tế trong lĩnh vực bảo tồn và SDNL TK&HQ. Bên cạnh đó Luật sửa đổi sẽ hoàn thiện các quy định quản lý hoạt động về SDNL TK&HQ đối với các cơ sở sản xuất công nghiệp, công trình xây dựng; Tăng cường các cơ chế ưu đãi, công cụ hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp đầu tư các dự án về SDNL TK&HQ.
Bộ Công Thương, cơ quan được giao chủ trì soạn thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SDNL TK&HQ, đã phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan tổ chức xây dựng hồ sơ đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SDNL TK&HQ theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Trên cơ sở các quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Công Thương đã thực hiện tổng kết, đánh giá quy định của hiện hành; thành lập Ban soạn thảo (gồm 29 thành viên) và Tổ biên tập Luật (gồm 38 thành viên); tổ chức xây dựng, lấy ý kiến rộng rãi về dự thảo Luật.
Bà Nguyễn Thị Lâm Giang, Vụ trưởng Vụ Tiết kiệm năng lượng và Phát triển bền vững, Bộ Công Thương cho biết: “Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SDNL TK&HQ được xây dựng trên nguyên tắc thể chế hóa đầy đủ, chính xác chủ trương, đường lối của Đảng về việc sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả. Bộ Công Thương sẽ tiếp tục tổng kết pháp luật và các quy định có liên quan về việc sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả; kế thừa những quy định đã được thực tế chứng minh, áp dụng có hiệu quả; bổ sung các quy định để xử lý những bất cập, vướng mắc của pháp luật hiện hành và các phát sinh trên thực tiễn với mục tiêu lớn nhất là đáp ứng yêu cầu về năng lượng. Bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với các quy định pháp luật có liên quan”.
Bộ Công Thương đã nhận được ý kiến góp ý, tham vấn của 12 Bộ ngành, 63 tỉnh thành phố và 70 Tập đoàn, Tổng công ty lớn đề xuất sửa đổi các quy định của Luật SDNL TK&HQ.
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương đã thực hiện Nghiên cứu, rà soát Luật SDNL TK&HQ, tiếp tục hoàn thiện các chính sách để có giải pháp chính sách mới khả thi, khắc phục những bất cập của Luật hiện hành, tạo động lực và xung lực mới cho việc sử dụng tiết kiệm và hiệu quả.
Các nội dung trong Dự thảo Luật đảm bảo phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về “… tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước” (Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII); “Tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật trên tất cả các lĩnh vực, tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc, khơi dậy, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững của đất nước” (Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới).
SDNL TK&HQ được xem là nguồn năng lượng thứ nhất và có thể mang lại hiệu quả kép về giảm cường độ năng lượng và phát thải khí nhà kính. Do đó, các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước phát triển nơi mà trải qua các cuộc khủng hoảng năng lượng đều quan tâm đến việc SDNL TK&HQ.
Ông Nguyễn Đình Hiệp – Chủ tịch Hội Khoa học và công nghệ sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả Việt Nam nhận định: “Khi xây dựng Luật SDNL TK&HQ năm 2009 - 2010, Việt Nam đã tham khảo một số các luật về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả của một số nước. Đến nay, hầu hết các Luật này đều đã được các nước sửa đổi, trong đó có một số nước đã hơn 10 lần sửa đổi. Sau hơn 15 năm thi hành, Luật SDNL TK&HQ đã bộc lộ bất cập cần phải rà soát để sửa đổi, bổ sung một số nội dung được quy định tại Luật và các quy định liên quan theo hướng chuyển quy định mang tính khuyến khích thành quy định bắt buộc”.
Thực hiện Thông báo Kết luận của Thường trực Chính phủ, Bộ Công Thương đang tập trung đánh giá, đề xuất sửa đổi 04 nhóm chính sách của Luật.
Thứ nhất: Chính sách về nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực sSDNL TK&HQ
Mục tiêu của chính sách: Tăng số lượng cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm, đảm bảo mục tiêu tăng quản lý bắt buộc đối với nhóm đối tượng sử dụng nhiều năng lượng;
Phân định rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước (trung ương và địa phương) trong việc xây dựng chính sách và quản lý hoạt động tiết kiệm năng lượng nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng và giao thông vận tải.
Giải pháp thực hiện chính sách: Giao Chính phủ điều chỉnh việc xác định mức sử dụng năng lượng đối với cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội và mục tiêu tiết kiệm năng lượng của đất nước.
Xem xét điều chỉnh tăng cường trách nhiệm của địa phương trong việc kiểm tra tuân thủ các tiêu chuẩn, quy chuẩn, định mức tiêu thụ năng lượng của các doanh nghiệp tại địa phương và việc xây dựng kế hoạch SDNL TK&HQ; theo dõi, đôn đốc tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch của địa phương, kiểm tra, giám sát tuân thủ các quy định về SDNL TK&HQ.
Bổ sung trách nhiệm quản lý hoạt động dán nhãn năng lượng đối với sản phẩm vật liệu xây dựng, giao Chính phủ quy định trong tổ chức, triển khai, thực hiện, tăng cường phân cấp cho địa phương trong hoạt động kiểm tra giám sát.
Thứ hai: Chính sách về quản lý, phát triển đối với dịch vụ tư vấn năng lượng, kiểm toán năng lượng, đào tạo nhân lực trong lĩnh vực SDNL TK&HQ
Mục tiêu của chính sách: Bổ sung, hoàn thiện khung pháp lý để tạo điều kiện và khuyến khích các bên tham gia thị trường năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ tư vấn.
Cải thiện chất lượng đào tạo đội ngũ quản lý năng lượng, kiểm toán viên năng lượng và nâng cao được năng lực chuyên môn cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực SDNL TK&HQ.
Giải pháp thực hiện chính sách: Giao Chính phủ nghiên cứu xây dựng các cơ chế hỗ trợ và khuyến khích để hình thành hệ thống các công ty dịch vụ tư vấn năng lượng.
Bổ sung thêm nội dung quy định cụ thể về thời hạn của chứng chỉ kiểm toán viên năng lượng và chứng chỉ quản lý năng lượng.
Giao Chính phủ quy định điều kiện về điều kiện kinh doanh ngành nghề kiểm toán năng lượng để đảm bảo chất lượng dịch vụ.
Thứ ba: Chính sách, quy định về chính sách ưu đãi, công cụ hỗ trợ tài chính cho lĩnh vực SDNL TK&HQ
Mục tiêu của chính sách: Xây dựng cơ sở pháp lý để có thể hình thành và vận hành hiệu quả công cụ Quỹ tài chính quốc gia thúc đẩy SDNL TK&HQ theo hướng xã hội hoá.
Huy động nguồn lực trong và ngoài nước để triển khai các hoạt động tiết kiệm năng lượng, hình thành thị trường dịch vụ tiết kiệm năng lượng minh bạch tại Việt Nam.
Giải pháp thực hiện chính sách: Bổ sung quy định thành lập Quỹ thúc đẩy SDNL TK&HQ Việt Nam theo hướng xã hội hoá, tận dụng các nguồn lực trong và ngoài nước, hạn chế sử dụng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước.
Bổ sung, làm rõ các quy định về hỗ trợ thuế, hỗ trợ tài chính đối với hoạt động đầu tư các giải pháp SDNL TK&HQ, trong đó có các dự án nâng cấp, cải tạo dây chuyền sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất bằng công nghệ tiết kiệm năng lượng.
Thứ tư: Chính sách chuyển đổi thị trường và quản lý hiệu suất phương tiện, thiết bị sử dụng năng lượng
Mục tiêu của chính sách: Xây dựng, bổ sung các chính sách nhằm khuyến khích đầu tư phát triển các sản phẩm hiệu suất cao, từng bước loại bỏ các sản phẩm hiệu suất thấp đối với lĩnh vực vật liệu xây dựng.
Giải quyết các thiếu sót, vướng mắc về chính sách về quản lý hiệu suất năng lượng cho các phương tiện thiết bị sử dụng năng lượng và dán nhãn năng lượng thuộc lĩnh vực xây dựng.
Giải pháp thực hiện chính sách: Bổ sung làm rõ đối tượng dán nhãn năng lượng cho nhóm vật liệu xây dựng.
Bãi bỏ quy định cấp giấy chứng nhận dán nhãn năng lượng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tăng cường việc kiểm tra sau dán nhãn (hậu kiểm).
Nhu cầu năng lượng tại Việt Nam tăng trung bình khoảng 7%/năm, riêng nhu cầu về điện tăng trưởng trung bình 9,5%/năm để đáp ứng tăng trưởng GDP. Theo dự báo, nhu cầu sử dụng điện trong giai đoạn tới vẫn tăng trưởng 8-9%/năm. Ngành năng lượng Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn để đảm bảo điện cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật SDNL TK&HQ sửa đổi và các hoạt động của Chương trình Quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2019-2030 kỳ vọng sẽ góp phần giải quyết khó khăn cho ngành năng lượng, đưa Việt Nam thực hiện lộ trình trung hoà các bon vào năm 2050 theo cam kết tại Hội nghị COP 26.