Ở khu vực Châu Á, Hàn Quốc và Nhật Bản là những quốc gia
quan tâm sớm nhất đến vấn đề sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
Hàn Quốc
Cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần thứ nhất đã ảnh hưởng
nghiêm trọng đến kinh tế Hàn Quốc. Năm 1973 Hàn Quốc đã lập Ủy ban phát triển
các chương trình và chính sách tiết kiệm năng lượng (TKNL) bao gồm các Bộ
có liên quan và ngay sau đó 1 năm, Luật quản lý nhiệt đã được ban hành. Năm
1979 Luật sử dụng hợp lý năng lượng ra đời ở đất nước này đã đặt nền móng cho
các chương trình TKNL.
Ngoài đẩy mạnh tuyên truyền, Chính Phủ Hàn Quốc
còn đẩy mạnh các chính sách như: Khuyến khích tài chính, ưu đãi
thuế cho đổi mới thiết bị TKNL, các tòa nhà mới xây phải có
cách nhiệt theo đúng tiêu chuẩn…
Cách làm sáng tạo nhất của chính sách TKNL Hàn Quốc chính là việc thành lập công ty quản lý năng lượng KEMCO hoạt động theo mô hình đặc biệt rất đáng học tập, vừa mang tính quản lý công ích, vừa mang tính kinh doanh. Năm 1994, trong tổng nguồn vốn hoạt động gần 500 triệu USD thì gần 50% là vốn tự có, Chính phủ tài trợ 38%, còn lại là huy động được từ doanh nghiệp.
Trung Quốc
Với lợi thế là quốc gia có nguồn tài nguyên
năng lượng dồi dào và giá rẻ nên mặc dù vấn đề bảo
tồn năng lượng đã được tính đến từ những năm 80 của thế kỷ trước song mãi sau
đó chục năm Trung Quốc mới thực sự chú ý đến vấn đề này.
Hàng năm, Trung Quốc tiết kiệm được hàng chục triệu tấn
năng lượng quy đổi thông qua các thể chế, chính sách như thiết lập hệ
thống quản lý năng lượng từ Trung Ương đến địa phương; điều chỉnh hệ thống cơ
cấu kinh tế hướng đến nền kinh tế có cường độ sử dụng năng lượng thấp; đi mới
công nghệ, dần thay thế thiết bị tiêu tốn năng lượng; ban hành các tiêu chuản, quy
phạm định mức TKNL…
Ấn Độ
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới WB
và Tổ chức UNDP thì tiềm năng TKNL ở Ấn Độ là
20 đến 30%. Nguyên nhân của việc sử dụng năng lượng chưa hiệu
quả ở nước này xuất phát từ hai yếu tố cơ bản
và cũng là những bất lợi trong sử dụng năng lượng mà Ấn Độ vấp
phải.
Thứ nhất, Ấn Độ có cường độ năng lượng tương
đối cao trong khu vực công nghiệp do công nghệ lạc hậu, thiếu
vốn để đổi mới thiết bị, chính sách quản lý không theo hướng TKNL,
chính sách giá không khuyến khích TKNL. Tiếp đến, với cường độ năng lượng tăng
nhanh ở khu vực nông thôn cũng khiến nguồn năng lượng của nước này nhanh chóng
tổn hao.
Trước thực tế trên, năm 1974 chính thức bắt tay xây
dựng Luật TKNL và sửa đổi, bổ sung 14 luật hác liên quan
đến năng lượng. Với những nỗ lực của Chính phủ, kể từ kế hoạch 5 năm lần thứ 8
(1993- 1998), mỗi năm Ấn Độ tiết kiệm được khoảng 6 triệu tấn dầu quy đổi và
giảm mức tăng nhu cầu điện khoảng 5000 MW.
Nhật Bản
Là một trong những nước có nền công nghiệp phát
triển lại thiếu nguồn nhiên liệu tự nhiên nên công tác bảo tồn năng lượng sớm
được quốc gia này chú trọng.
Sau 6 năm khủng hoảng năng lượng lần thứ nhất, năm
1979, Nhật Bản đã ban hành luật TKNL. Một hệ thống đồng bộ được
thiết lập từ Chính phủ - các Bộ/ ngành đến địa phương – các xí nghiệp nhà
máy và các hộ tiêu thụ năng lượng.
Trong đó nhiệm vụ được phân chia và giao trách
nhiệm rõ ràng. Bộ Công Thương làm đầu mối điều hòa, phối
hợp các hoạt động TKNL. Bộ Xây dựng ban hành các tiêu chuẩn tòa nhà
TKNL, hướng dẫn thiết kế xây dựng. Bộ Giao thông vận tải xây dựng và ban hành
các tiêu chuẩn TKNL cho các phương tiện ô tô, xe máy; xây dựng quy trình dán
nhãn xe TKNL. Trung tâm bảo tồn năng lượng chịu trách nhiệm thực hiện các hoạt
động, dịch vụ, tư vấn về TKNL theo chỉ đạo của Bộ Công Thương.
Khu vực Đông Nam Á
Trong khu vực, Thái Lan là quốc gia chú ý đến vấn đề TKNL
khá sớm. Chương trình TKNL thứ nhất của nước này được bắt đầu từ năm 1982 với
hàng ngàn xí nghiệp được kiểm toán năng lượng, chính sách khuyến khích tài
chính được áp dụng. Trung tâm bảo tồn năng lượng Thái Lan (ECCT) được thành lập
năm 1987 hoạt động như một tổ chức hỗ hợp giữa nhà nước và tư nhân. Một trong
những kết quả đạt được của chương trình TKNL là, hàng năm tiết kiệm được khoảng
30 nghìn tấn dầu TOE.
Tuy vậy, phải đến năm 1992 khi
Luật “ Thúc đẩy bảo tồn năng lượng” ra đời, các
hoạt động TKNL ở Thái Lan mới thực sự có chuyển biến
rõ rệt.
Tiếp đến,
Tại Philipin, vấn đề TKNL lại trở thành bộ phận quan
trọng của chính sách năng lượng quốc gia bởi nước này thiếu năng lượng trầm
trọng. Ngay từ những năm 1980, Cục Năng lượng đã được giao nhiệm vụ quản l ý,
bảo tồn năng lượng. Hàng loạt Trung tâm quản l ý , bảo tồn năng lượng ra đời.
Nhờ chương trình TKNL thông qua một số biện pháp mà hàng năm Philipin tiết kiệm
được hàng ngàn tấn dầu quy đổi.
Ở Việt Nam, trước năm 2002, công tác quản lý
năng lượng nói chung và TKNL nói riêng còn thiếu tập trung do chưa có cơ quan
quản lý. Sau Nghị định 102/2003 NĐ-CP vấn đề sử dụng năng lượng tiết kiệm và
hiệu quả mới chính thức được quan tâm. Các nghị định, văn bản luật về TKNL được
ban hành. Văn phòng Chương trình mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết
kiệm và hiệu quả được thành lập. Từ đó đến này các công tác chung về TKNL được triển khai cả bề rộng lẫn chiều sâu đã đem lại những thành quả lớn trong công tác tiết kiệm năng lượng.
Trần Linh