[In trang]
Chia sẻ kinh nghiệm phát triển dự án điện sinh khối tại Việt Nam
Thứ sáu, 26/11/2021 - 16:50
Chiều ngày 25/11/2021, Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo - Bộ Công Thương đã phối hợp với Tổ chức Hợp tác Phát triển Đức (GIZ) tổ chức Hội thảo trực tuyến: “Kinh nghiệm phát triển dự án điện sinh khối tại Việt Nam.”
Phát biểu tại hội thảo, ông Phạm Nguyên Hùng - Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo cho biết: “Việt Nam có nhiều tiềm năng về phát triển điện sinh khối. Tuy nhiên, việc khai thác các nguồn tài nguyên sinh khối này còn những bước hạn chế nhất định. Thống kê cho thấy, trong năm 2020, công suất lắp đặt toàn quốc đạt gần 75.000 MW, nhưng điện sinh khối công suất lắp đặt ghi nhận chiếm chưa đến 1%, điện năng thương phẩm đưa lên lưới chỉ hơn 0,1%. Đây là con số rất nhỏ so với tiềm năng phát triển của điện sinh khối của Việt Nam…”
Ông Phạm Nguyên Hùng, Phó cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo phát biểu tại hội thảo trực tuyến.
Việt Nam là một nước nông nghiệp với tiềm năng sản xuất năng lượng sinh khối nhờ vào nguồn tài nguyên sinh khối sẵn có. Tuy nhiên, việc khai thác các nguồn tài nguyên sinh khối còn gặp nhiều hạn chế. Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế khuyến khích nhằm thu hút các nhà đầu tư nhưng đến nay tổng công suất lắp đặt của các nhà máy điện sinh khối vẫn còn rất nhỏ trong tổng công suất lắp đặt của các nhà máy điện tại Việt Nam. Để phát triển mạnh mẽ nguồn điện sinh khối, Việt Nam cần những giải pháp tốt hơn để khuyến khích các nhà đầu tư.
Đánh giá về thực trạng phát triển năng lượng sinh khối ở Việt Nam, TS. Nguyễn Anh Tuấn, Giám đốc Trung tâm Năng lượng tái tạo, Viện Năng lượng - Bộ Công Thương chia sẻ: “Ở Việt Nam các dạng sinh khối chính như: trấu, rơm, bã mía, sắn, phế thải, nhiên liệu gỗ, tre... Tỷ lệ sử dụng sinh khối hiện nay chủ yếu là gỗ củi hơn 50%, trấu 21%, bã mía 9%... cho đun nấu tại gia đình, các lò đốt sinh nhiệt. Tiềm năng sản xuất điện từ trấu đến năm 2035 khoảng 370 MW; điện gỗ củi hơn 3.000 MW; điện từ bã mía khoảng 470 MW...”.
Trong thời gian qua, năng lượng sinh khối đã được Chính phủ và các bộ, ngành quan tâm. Tại Chiến lược thích ứng biến đổi khí hậu, sinh khối và khí sinh học là một trong những phương án nhằm mục tiêu giảm phát thải nhà kính. Ngoài ra, Chiến lược tăng trưởng xanh cũng đưa ra các cơ chế khuyến khích phát triển các dự án điện sinh khối nhằm khuyến khích phát triển các dự án điện khí sinh học... Tuy nhiên, điện sinh khối vẫn ở mức khiêm tốn bởi những khó khăn trong việc kiểm soát nguồn nhiên liệu cung cấp cho nhà máy, như khả năng cung cấp nhiên liệu thiếu ổn định và bền vững, giá nhiên liệu thay đổi theo mùa… Cùng với đó là vấn đề về vốn đầu tư ban đầu lớn, cơ chế giá khuyến khích mua điện chưa hấp dẫn, thiếu kinh nghiệm phát triển.
Các đại biểu tham gia buổi họp trực tuyến.
Xuất phát từ thực tế đó, để năng lượng sinh khối có thể thực sự tăng trưởng mạnh mẽ trong thời gian tới, cần tăng cường hơn nữa các cơ chế, chính sách để các nhà đầu tư quan tâm hơn tới phát triển điện sinh khối, điện rác để vừa thân thiện môi trường, đảm bảo cung cấp điện.
Việt Nam đang nỗ lực cùng với hỗ trợ về công nghệ và tài chính của các tổ chức quốc tế, hướng tới giảm phát thải bằng 0 vào năm 2050. Theo đánh giá của chuyên gia nước ngoài, Việt Nam có nguồn lượng sinh khối đa dạng và rất lớn, trong đó có nguyên liệu sau thu hoạch như bã mía, trấu rơm... có thể chuyển đổi thành năng lượng sạch thông qua nhiều công nghệ khác nhau, tùy theo quy mô dự án. Điện sinh khối là dạng năng lượng tái tạo có thể giúp Việt Nam đáp ứng phần nào năng lượng cho phát triển kinh tế, xã hội.
Cũng tại hội thảo, ông Mathias Eichelbronner - chuyên gia quốc tế về năng lượng sinh khối (GIZ) đã chia sẻ kinh nghiệm phát triển nguồn năng lượng này tại một số quốc gia trên thế giới. Ông cho biết: “Hiện nay, nhiều nước trong khu vực đã có mức giá ưu đãi FIT (một giá) với điện sinh khối rất tốt như: Thái Lan, Malaysia... Việt Nam cũng đã có cơ chế giá FIT, tuy nhiên vẫn là chưa đủ để khuyến khích loại hình năng lượng này phát triển. Việc đầu tư sản xuất điện từ bã mía giúp chi phí sản xuất mía đường ở Thái Lan thấp hơn chi phí ở Việt Nam. Bởi lẽ, họ dùng bã mía để sản xuất điện, sẽ giảm chi phí năng lượng của họ. Như vậy, với mỗi tấn đường sẽ lợi thế hơn về giá bán”.
Việt Nam cần tính tới giai đoạn 10-20 năm tới, với những công nghệ hiện đại và công suất lớn hơn để đáp ứng hiệu quả đầu tư. Đặc biệt, Nhà nước cần có cơ chế hỗ trợ người dân vùng nguyên liệu, cơ giới hóa, nhằm hướng tới mục tiêu phát triển một nền năng lượng carbon thấp. Một điểm nữa cần lưu ý đó là chi phí vận hành điện sinh khối còn cao, nên cần có cơ chế để bù đắp do ảnh hưởng của lạm phát, cũng như thay thế phụ tùng, thiết bị. Giải quyết được các vấn đề còn tồn đọng sẽ thúc đẩy phát triển điện sinh khối, góp phần hiện thực hoá các dự án sinh khối mới tại Việt Nam.
Doãn Tâm