[In trang]
Quy hoạch năng lượng tổng thể quốc gia: Giá là đòn bẩy
Thứ năm, 07/11/2013 - 21:51
Ngành năng lượng cần có sự quản lý thống nhất đối với các phân ngành: than, điện, dầu khí, năng lượng tái tạo, trong đó giá là đòn bẩy cần tập trung giải quyết sớm. Bài 2

PGS.TS. Bùi Huy PhùngChủ tịch Hội đồng Khoa học – Hiệp hội Năng lượng Việt Nam nhận định:  

Quy hoạch năng lượng tổng thể quốc gia là bước đầu tiên, là cơ sở để xây dựng quy hoạch các phân ngành năng lượng,là tiền đề cho kế hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng năng lượng, bởi vậy, nó là cơ sở khoa học và theo pháp quy xây dựng quy hoạch còn là cơ sở pháp lý cho các quy hoạch phân ngành. 

Quy hoạch Điện VII thể hiện tính thiếu thống nhất, bất cập khi xây dựng quy hoạch riêng rẽ. Nguyên nhân là do tính toán dự báo với số liệu năm cơ sở thiếu chính xác, thiên cao.

Trong Quy hoạch này, phương pháp hệ số đàn hổi điện đối với GDP thường chỉ dùng để dự báo ngắn hạn, tính kiểm tra, hoặc tính phác thảo, ở đây lại dùng làm chủ yếu. Nội dung sử dụng năng lượng hiệu quả và tiết kiệm chưa chú ý đúng mức. Với cách tính toán này đã đầy nhu cầu điện lên cao và không làm rõ được nhu cầu ấy sử dụng vào đâu.

9221b9f82_diengio1.jpg

Dự án điện gió ở tỉnh Ninh Thuận

Theo Quy hoạch Điện VII, năm 2015 nhu cầu điện sản xuất và nhập khẩu là 194 – 210 tỷ kWh, năm 2020 nhu cầu điện sản xuất và nhập khẩu là 330 – 362 tỷ kWh, năm 2030 nhu cầu điện sản xuất và nhập khẩu là 695 – 834 tỷ kWh.

Thực tế, cường độ điện đối với GDP (kWh/USD) hiện nay ở nhiều nước đều bé hơn 1, Việt Nam nhiều năm qua xấp xỉ 1 đã là cao, nay dự báo ngày càng lớn, 1,5 – 2 thụt lùi so với cả chính mình.

Xét về hệ số đàn hồi điện, hiện nay khoảng 1,6 -1,7, theo yêu cầu đến năm 2020 giảm xuống 1, với kết quả dự báo trên là không thể giảm được.

Những kết quả kéo theo do nhu cầu điện quá cao xuất phát từ nhu cầu cao như đã nói trên, việc tính toán cơ cấu nguồn, lưới, nguồn nhiên liệu chưa dựa trên cơ sở cân đối, phát triển các nguồn năng lượng sơ cấp (than, dầu-khí, thủy năng, hạt nhân, NLTT,…) đã dẫn tới một số tình huống bất cập, khó giải quyết.

Nguồn, lưới điện phải xây dựng dồn dập, kết quả tính toán nguồn với phương án cơ sở, có thể gói gọn trong mấy con số chính.

Giai đoạn 2011-2015, tổng công suất nguồn 43.150MW ( tăng so với 2010 là 22.890MW, mỗi năm tăng gần 5000MW)

Giai đoạn đến 2020, tổng công suất nguồn 75.000MW trong dó nhiệt điện than 32.5000MW (46%).

Năng lượng tái tạo trong tổng sản xuất điện đạt 4,5% vào 2020, 6% vào 2030;

Điện hạt nhân dự kiến sẽ vào làm việc năm 2021 khoảng 2000MW và đến 2030 sẽ có tổng công suất khoảng 10.000MW, 2025 tổng công suất nguồn 97.000MW, trong đó nhiệt điện than 45.200MW (46%).

Giai đoạn đến 2030, tổng công suất nguồn 146.000MW, trong đó nhiệt điện than 77.300MW (52%), điện sản xuất 695 tỷ kWh, với phương án cao là 834 tỷ kWh. Năng lượng tái tạo sản xuất điện đạt 4,5% vào 2020, 6% vào 2030;


solar1

 Cả nước hiện có khoảng 2,5 triệu bình đun nước nóng bằng điện

Đối với Việt Nam tới đây than được sử dụng nhiều để sản xuất điện là hợp lý, nhưng ở mức độ nà là phù hợp cần được tính toán kỹ.

Để đảm bảo thực hiện khối lượng đã đề ra, Quy hoạch Điện II, yêu cầu vốn đầu tư khổng lồ. Giai đoạn 2011-2020: tổng đầu tư 48,8 tỷ USD, trong đó lưới 33%, 5 tỷ$/năm. Giai đoạn 2021-2030, với tổng đầu tư 75 tỷ USD, trong đó lưới 34%, 7.5 tỷ$/năm. Trong khi đó, trước đây ngành than chỉ đầu tư mỗi năm 400-500 triệu USD, với QH – 2012, bình quân mỗi năm khoảng 1 tỷ USD.

Trên cơ sở thực tế các quy hoạch điện hiện nay, chúng ta cần chú trọng một số vấn đề sau, nhằm đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.

Về mức nhu cầu điện, theo kết quả tính toán thuộc đề tài cấp Bộ, tại Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, năm 2015 nhu cầu điện sản xuất là 145 – 155 tỷ kWh, năm 2020 nhu cầu điện sản xuất 255 – 235 tỷ kWh, năm 2030 nhu cầu điện sản xuất là 450-460 tỷ kWh.

Mức nhu cầu này cũng tương tự như một vài nghiên cứu khác, tuy nhiên cường độ điện vẫn còn cao. Đề nghị cho phép nghiên cứu hiệu chỉnh cập nhật nhu cầu điện của Quy hoạch Điện VII phù hợp hơn.

 Về nguồn, lưới điện, đề nghị tính toán rà soát lại nhu cầu nguồn – lưới và từ đó chính vốn đầu từ phù hợp hơn. Trong đó nguồn nhiệt điện đốt than sẽ được xem xét giảm bớt, có thể chi ở mức 20.000MW vào 2020, 40.000MW vào 2030. Nhu cầu than cho sản xuất điện sẽ không quá lớn; xem xét khả năng tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo.

Về nguồn than cho nhiệt điện, đề nghị với khả năng than nội địa (trên 52 triệutấn), nên nghiên cứu cân đối lại nhu cầu than cho các ngành, kể cả xuất khẩu giai đoạn đến 2015, đảm bảo chưa nhập than;

Nghiên cứu điều chỉnh tăng giá than phù hợp với giá các loại nhiên liệu – năng lượng khác trong bối cảnh chúng của KTQD, có thêm điều tăng đầu tư cho ngành than;

Đầu tư thích đáng hơn để đẩy nhanh tiến độ thử nghiệm và khai thác bể than đồng bằng sông Hồng;

Nghiên cứu việc đầu tư than ra nước ngoài sớm, thực tế vừa qua cho thấy không dễ nhập than khối lượng lớn.

Để ngành năng lượng có tính thống nhất rất cao, cần có sự quản lý thống nhất đối với các phân ngành: than, điện, dầu khí, NLTT. Tính thống nhất này không chỉ ở cơ cấu tổ chức, mà chủ yếu là cơ cầu sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ cầu đầu tư, cơ cầu giá cả các loại nhiên liệu – năng lượng, trong đó giá là đòn bẩy cần tập trung giải quyết sớm.

Thứ nhất, quy hoạch và thực hiện quy hoạch tổng thể đối với phân ngành năng lượng;

Thứ hai, xác định vai trò của các dạng năng lượng và bố trí vốn đầu tư phù hợp

Thứ ba, điều chỉnh giá năng lượng hợp lý, hài hòa giữa các dạng năng lượng theo hướng thị trường.

Về phân cấp, hệ thống năng lượng, được phân cấp theo chuyên ngành gồm: phân ngành điện, than, dầu – khí, năng lượng tái tạo, năng lượng hạt nhân ( cũng có thể ghép vào phân ngành điện) và phân cấp theo quy mô lãnh thổ: quốc gia, vùng, các trung tâm.

Thanh Huyền (ghi)